Hỏi: Ngày 15-5-2011, tôi và chồng tôi có đến phòng công chứng Vĩnh Long để ký một bản hợp đồng ủy quyền. Nội dung tờ ủy quyền như sau : Chồng tôi (tức bên A) giao toàn quyền cho tôi (tức bên B) được quyền sử dụng tài sản đất đai ( tài sản chung của vợ chồng) với mọi hình thức: cho, tặng, bán, cầm cố; thời hạn ủy quyền 50 năm ( trong hợp đồng ủy quyền không ghi tiền thù lao công chứng ).
Do đó, ngày 20-5-2011 tôi ( bên B ) đã làm hồ sơ cho tặng số tài sản đất đó lại cho con tôi. Đến ngày 27-6-2011 con tôi đã đứng tên chủ sở hữu quyền sử dụng tài sản đất đó hợp pháp. Đến ngày 9-1-2012 chồng tôi (bên A) quyết định ra tòa ly hôn với tôi và đòi lấy lại quyền sở hữu tài sản đất đã ủy quyền cho tôi trước đó (số tài sản đất mà tôi đã cho con tôi đứng tên).
Vậy xin luật sư tư vấn cho tôi được biết chồng tôi có quyền lấy số tài sản đất đó hay không? Vì sự việc rất quan trọng đối với tôi và con xin các luật sư tận tình giải thích. Tôi xin thành thật biết ơn.(Ph. Luong)
Luật sư Trần Hồng Phong trả lời:
Vụ việc chị nêu, theo quan điểm và đánh giá sơ bộ ban đầu của tôi, là khả năng nào cũng có thể xảy ra. Phụ thuộc vào “lý luận” của các bên và quan điểm đánh giá của hội đồng xét xử khi giải quyết vụ án (vì việc chị hỏi chính là khía cạnh tài sản trong vụ án ly hôn). Dưới đây là một số nhận xét của tôi.
Trước hết ( trên cơ sở không được trực tiếp xem tờ Hợp đồng ủy quyền), tôi nghĩ rằng đã có sự mâu thuẫn và thiếu chặt chẽ, bất cập trong nội dung hợp đồng ủy quyền. Theo qui định của pháp luật (tại Bộ luật dân sự), quyền sở hữu (đối với tài sản) bao gồm 3 nội dung sau: chiếm hữu, sử dụng và định đoạt.
Hiểu một cách nôm na đơn giản, “quyền chiếm hữu” là quyền chiếm đoạt tài sản. Ví dụ: tôi có (sở hữu) một chiếc xe gắn máy, thì khi đó tôi có quyền “chiếm” chiếc xe đó cho riêng mình mà không sợ bị ai khác nói năng gì. Trong khi nếu người khác làm như vậy thì sẽ bị xem là “trộm cắp”. Quyền sử dụng tức là “dùng”/”sài” tài sản đó. Chẳng hạn như sử dụng chiếc xe gắn máy để đi làm. Quyền “định đoạt” tức là quyền được mua bán, cho tặng, phá hủy, thay đổi “số phận” của tài sản đó. Chẳng hạn tôi có quyền tặng chiếc xe đó cho bất kỳ ai mà mình thích !
Cần phải hiểu là các quyền “chiếm hữu”, “sử dụng” và “định đoạt” nói trên là 3 quyền khác/độc lập với nhau. Và chỉ có người “chủ sở hữu” mới có đủ 3 quyền đó, trong đó có quyền “định đoạt” – cũng chính là cho tặng tài sản của mình. Còn người “sử dụng” (nhất là được sử dụng từ việc ủy quyền) thì chưa phải là người sở hữu tài sản. Nên sẽ không có quyền “định đoạt” (cho tặng) tài sản cho người khác.
Như vậy, nếu thực sự trong bản hợp đồng ủy quyền chỉ ghi chị là người “được quyền sử dụng” nhà đất, thì về nguyên tắc, chị không có quyền cho tặng toàn bộ tài sản này cho con chị. Mà chỉ có thể cho phần tài sản của mình (1/2) trong số “tài sản chung của vợ chồng” mà thôi. Hay nói cách khác, việc chị cho tặng tài sản cho con là đã vượt quá phạm vi được ủy quyền “sử dụng”.
Tuy nhiên, theo lời chị, thì cũng trong hợp đồng ủy quyền lại ghi chị có quyền cho tặng, bán, cầm cố” tài sản trên, tức là đã có sự vô lý và mâu thuẫn với việc chỉ được ủy quyền “sử dụng” - như tôi đã phân tích ở trên.
Nói rộng ra, là bản thân tờ Hợp đồng ủy quyền đã có sự mâu thuẫn và trái pháp luật về mặt nội dung. Trong trường hợp này, bản hợp đồng này nhiều khả năng sẽ bị tòa tuyên là “vô hiệu” ( không có giá trị pháp lý).
Theo qui định của pháp luật, những văn bản/giao dịch bị tuyên là “vô hiệu” sẽ không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên. Mà các bên phải hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận. Trong khi đó, vì việc chị cho tặng nhà cho con dựa theo một văn bản không có giá trị pháp lý (giả sử rằng hợp đồng ủy quyền bị tuyên là vô hiệu), nên hành vi cho tặng nhà đất của chị cho con cũng sẽ bị xem là giao dịch vô hiệu. Vì chủ thể (tức là các bên tham gia giao dịch, ở đây là chị và con chị) không có thẩm quyền để tham gia giao dịch (không có quyền cho tặng nhà).
Hay nói cách khác, trong trường hợp này, giấy tờ nhà - dù con chị nay đã đứng tên sở hữu, vẫn có thể sẽ bị tòa án tuyên hủy.
Và khi đó, như đã nói ở trên, hậu quả của giao dịch vô hiệu là “các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận” – nghĩa là con chị phải “trả” lại nhà đất cho chị và chị sẽ “trả” lại phần nhà đất của người chồng cho chồng.
Tuy nhiên, những điều tôi phân tích ở trên là thuần túy về mặt lý thuyết và cũng chỉ trên cơ sở không có đầy đủ thông tin một cách chi tiết, chính xác. Trong khi đó, trên thực tế có thể sẽ/đã có những tình tiết, sự kiện làm thay đổi, thậm chí phủ định toàn bộ những “lý lẽ” của tôi ở trên.
Chính vì vậy, theo tôi trong sự việc này chị nên thuê luật sư, thậm chí thuê nhiều luật sư. Ý kiến, quan điểm tư vấn của các luật sư chắc chắn sẽ góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chị một cách tốt nhất.
Lời cuối mà tôi muốn trao đổi thêm là: chị cũng không nên đòi hỏi những gì vượt quá những qui định của pháp luật. Vì sự “vượt quá” này không phải là “quyền và lợi ích hợp pháp” của chị, nên sẽ khó được tòa án chấp nhận. Về nguyên tắc, tài sản trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của hai vợ chồng, khi ly hôn sẽ chia đôi. Nếu con còn nhỏ thì cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy, cấp dưỡng. Nếu phần "cho tặng" các con mà chị nêu được xác định là "nghĩa vụ cấp dưỡng" hoặc "tấm lòng" của người cha đối với các con thì vẫn OK.
Chúc chị mọi việc tốt đẹp. www.ecolaw.vn
Chuyên mục Luật sư tư vấn Ecolaw do các luật sư
của công ty luật hợp danh Ecolaw thực hiện. Quí vị hãy gửi câu hỏi theo địa
chỉ ecolaw2@gmail.com để được giải
đáp hoàn toàn miễn phí – trừ trường hợp câu hỏi quá phức tạp hoặc không rõ
ràng. Thông tin càng chi tiết, cụ thể - nội dung tư vấn càng chính xác, hiệu
quả. Phần lớn các câu hỏi – đáp (được mã hóa để bảo mật) sẽ được đăng trên
website này nhằm mục đích phổ biến kiến thức pháp luật phổ thông cho mọi
người.
Quí vị có thể click vào menu “Luật sư tư vấn” để tìm đọc thêm các
vấn đề mà mình quan tâm.
Lưu
ý: bài viết trên thuộc lĩnh vực “Dân
sự, tranh chấp dân sự”
|
CÔNG TY LUẬT HỢP DANH ECOLAW – ĐỊA CHỈ TIN CẬY CỦA MỌI NGƯỜI
843
Lê Hồng Phong, P.12, Quận 10, TP. Hồ Chí Minh
Email:
ecolaw1@gmail.com - website: www.ecolaw.vn
|