(Ecolaw.vn) - Khi một vụ việc đã có kết quả xét xử cuối cùng (là bản án hay quyết định phúc thẩm của tòa án), mà một bên đương sự vẫn cho rằng việc xét xử là chưa công bằng, có nhiều sai sót thì người này có quyền làm đơn gửi lên Chánh án TANDTC và/hoặc Viện trưởng VKSNDTC, đề nghị được xem xét lại bản án theo một thủ tục có tên gọi là “giám đốc thẩm”.
Trong một số trường hợp hiếm hoi ( dù không hẳn là đơn đề nghị của đương sự không hợp lý), Chánh án TANDTC hoặc Viện trưởng VKSNDTC có thể sẽ chấp nhận đề nghị của đương sự, mở ra cơ hội xét xử lại vụ án.
Dưới đây là một Đơn đề nghị được xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm mà công ty luật hợp danh Ecolaw đã soạn thảo cho thân chủ của mình và có được kết quả tốt.
(Chúng tôi quyết định giữ nguyên toàn bộ tên tuổi và các tình tiết trong đơn vì xét thấy đây là một vụ việc hoàn toàn có thật trên thực tế, vụ án đã được xét xử công khai và có thể xem như là một bài học kinh nghiệm về tố tụng chung cho nhiều người).
-------------------------------------
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bà Rịa- Vũng Tàu, ngày 25 tháng 4 năm 2009
ĐƠN ĐỀ NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM
(Đối với : bản án 05/2006/DSST ngày 22-03-2006 của TAND huyện Xuyên Mộc và quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án số 07/2006/QĐĐC-DSPT ngày 10-5-2006 của TAND tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu)
Kính gửi: CHÁNH ÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
Tôi tên: NGUYỄN THỊ NGỌC CẨM, sinh 1973.
Ngụ tại: Ấp 2 Đông, xã Bàu Lâm, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.
Là nguyên đơn đồng thời là người kháng cáo trong vụ án: “Tranh chấp quyền sử dụng đất” với bị đơn: ông NGUYỄN ĐỨC CƯƠNG, sinh 1958.
Vụ án này đã bị TAND tỉnh Bà Rịa- Vũng ra quyết định đình chỉ xét xử vào ngày 10-5-2006 với lý do đã triệu tập tôi 2 lần nhưng tôi không đến dự phiên tòa.
Nay tôi làm đơn này, xin được xem xét lại vụ án này theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án sơ thẩm số 05/2006/DSST ngày 22-03-2006 của TAND huyện Xuyên Mộc và Quyết định đình chỉ số 07/2006 ngày 10-5-2006 của TAND tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu vì những lý do sau:
1. TAND tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trái với qui định của pháp luật, làm mất quyền kháng cáo của tôi.
2. Toà án huyện Xuyên Mộc khi xử sơ thẩm lần 2 chỉ căn cứ vào việc chỉ ranh của phía bị đơn, mâu thuẫn với thực tế và các giấy tờ, tài liệu hợp pháp khác - để giải quyết, dẫn đến việc xét xử không khách quan, phát sinh nhiều điều vô lý.
Cụ thể như sau :
* Nguồn gốc thửa đất 207, diện tích 180m2 của tôi
Năm 1999, tôi mua lại thửa đất 207, diện tích 180 m2 của bà Đặng Thị Ba. Lô đất này Bà Đặng Thị Ba đã được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ từ ngày 24-11-1995.
Khi mua bán, hai bên có lập “Sơ đồ vị trí đất” được UBND xã và Văn phòng đăng ký QSDĐ huyện Xuyên Mộc chứng thực.
Ngày 16-12-1999, UBND huyện Xuyên Mộc cấp Giấy CNQSDĐ cho tôi, ghi rõ thửa 207, diện tích 180m2.
Vào thời điểm này, trên thửa đất 207 có một phần căn nhà của ông Nguyễn Đức Cương lẹm vào. Tôi có đề nghị ông Cương tháo dỡ, thì ông xin cho sử dụng tạm một thời gian ngắn nữa.
(Về lý do vì sao trên thửa đất 207 có một phần đuôi nhà của ông Cương lấn sang, xin trình bày rõ thêm như sau: Thửa 207 là đất công do xã quản lý và cấp cho bà Đặng Thị Ba là Đảng viên xã Bàu Lâm. Tại thời điểm cấp Giấy cho bà Ba, trên lô đất có một phần đuôi căn nhà cũ của ông Cương. Vì ông Cương là con rể của bà Ba nên bà Ba đã cho ông Cương giữ lại phần nhà lấn đất này).
Tháng 9-2003, ông Cương xây lại nhà vẫn có ý định làm luôn trên phần nền cũ có lấn sang đất của tôi. Do vậy tôi đã làm đơn kiện ông Cương. Trong Đơn khởi kiện, tôi yêu cầu ông Cương phải trả lại cho tôi phần đất diện tích 80m2 thuộc thửa 207 mà tôi đã được cấp Giấy CNQSDĐ.
* Quá trình giải quyết tranh chấp của Tòa án:
1. Sơ thẩm lần đầu tháng 3-2004 : tôi thắng kiện
Để có cơ sở giải quyết vụ án, ngày 18-10-2003, Tòa án huyện Xuyên Mộc cùng Trung tâm đo đạc bản đồ huyện đã đo vẽ các thửa đất trên theo sự chỉ ranh của hai bên. Ông Cương đã chỉ ranh theo ý kiến chủ quan của mình băng qua thửa đất 207 tới 130m2.
Ngày 15-03-2004, TAND huyện Xuyên Mộc xét xử sơ thẩm. Tòa đã đánh giá ranh đất do ông Cương chỉ là không phù hợp với tài liệu địa chính và Giấy chứng nhận của chính ông Cương và ra Bản án sơ thẩm số 06/DSST tuyên chấp nhận yêu cầu của tôi, buộc ông Cương tháo dỡ công trình xây dựng trả lại phần đất lấn chiếm có diện tích .
Ông Cương đã kháng cáo bản án này.
2. Phúc thẩm lần đầu tháng 7-2004 : hủy án sơ thẩm
Ngày 20-07-2004 TAND tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu xét xử phúc thẩm, bản án phúc thẩm số 41/DSPT tuyên: huỷ bản án sơ thẩm số.
Trong phần nhận định tại bản án có ghi rõ: toà sơ thẩm đã chưa điều tra xác minh làm rõ quá trình sử dụng đất trước khi đo đạc lập bản đồ , cũng chưa điều tra xác minh cơ sở pháp lý của việc đo vẽ phân lô và cấp giấy CNQSDĐ, xem xét việc cấp giấy có đúng luật hay không.
3. Sơ thẩm lần 2 tháng 3-2006 : xử theo sự chỉ ranh của ông Cương
Tòa án đã tiến hành đo vẽ lại các thửa đất trên theo sự chỉ ranh của tôi và ông Cương vào các ngày: 06-07-2005, 22-09-2005 và 17-10-2005.
Ngày 05-01-2006 Trung tâm kỹ thuật tài nguyên môi trường có công văn 02/CV-KTTNMT, trong công văn có đoạn: “ Sau khi kiểm tra lại bản đồ địa chính tờ số 71 xã Bàu Lâm, trung tâm kỹ thuật tài nguyên và môi trường nhận thấy: các ranh thửa đất 206,207,208 trong quá trình xử lý bản đồ đã nối nhầm ranh. Vì vậy kết quả xử lý sơ đồ vị trí đất được lồng ghép giữa hiện trạng sử dụng vào bản đồ là không chuẩn xác.
Căn cứ kết quả nêu trên Trung tâm kỹ thuật tài nguyên môi trường đã có văn bản gửi TAND huyện Xuyên Mộc đề nghị quan hệ với Phòng tài nguyên và môi trường huyện kiểm tra lại ranh giới các thửa đất 206,207,208 tờ bản đồ 71, bản đồ địa chính xã Bàu Lâm để chỉnh lý ranh giới thửa đất đúng với hiện trạng sử dụng đất để làm cơ sở cho TAND huyện Xuyên Mộc xem xét giải quyết hồ sơ vụ kiện.
Ngày 22-03-2006 TAND huyện Xuyên Mộc xét xử sơ thẩm lần 2 ra bản án sơ thẩm số 05/2006/DSST. Trong phần nhận định của bản án viết :
- Khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bà Cẩm, hộ ông Cương chuyển nhượng từ người khác mà không có sơ đồ vị trí kèm theo được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận, nên không có căn cứ pháp lý xác định hình thể thửa đất mà bà Cẩm ông Cương được sử dụng khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Căn cứ vào sơ đồ vị trí ngày 17-10-2005 của Trung tâm kỹ thuật tài nguyên môi trường .
- Dựa vào lời khai nhân chứng đã có thời gian sử dụng phần đất mà bà Cẩm nhận chuyển nhượng (bà Ba).
- Ông Cương đã sử dụng ổn định từ trước 1993.
Án tuyên :
Ông Cương được quyền sử dụng 133m2 đất tại thửa 207 theo sơ đồ vị trí đất ngày 17-10-2005.
Bà Nguyễn Thị Ngọc Cẩm được quyền sử dụng 61,6m2 đất tại thửa 207 theo sơ đồ vị trí đất ngày 17-10-2005.
Bác yêu cầu của bà Cẩm (tôi) đòi ông Cương tháo dỡ nhà và giao cho bà Cẩm sử dụng 42,8m2 tại thửa 207.
Đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu của bà Cẩm đòi ông Cương giao cho bà Cẩm sử dụng 41,5m2 đất thuộc thửa số 206 tờ bản đồ 71 vì không thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án.
Tôi đã kháng cáo
4. Phúc thẩm lần 2:
Ngày 10-05-2006 với lý do đã triệu tập tôi và người đại diện hợp lệ hai lần nhưng vẫn vắng mặt nên TAND Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu đã ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 07/2006/QĐĐC-DSPT ngày 10-05-2006.
III. Kiến nghị của tôi :
1. Đối với bản án sơ thẩm lần 2 : Cơ sở pháp lý để Tòa công nhận phần đất đang tranh chấp là của ông Cương là không đúng. Vì:
- Việc toà cho rằng khi mua đất mà tôi không có sơ đồ vị trí kèm theo được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận, nên không có căn cứ pháp lý xác định hình thể thửa đất là không đúng. Vì thực tế khi mua đất của bà Ba năm 1999, chúng tôi có lập Sơ đồ vị trí khu đất có xác nhận của cán bộ địa chính xã Bàu Lâm và có đóng dấu của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Trong sơ đồ thể hiện rất rõ vị trí và diện tích thửa đất.
- Việc Tòa nói rằng “dựa vào lời khai nhân chứng đã có thời gian sử dụng phần đất đang tranh chấp” có nghĩa là đã căn cứ vào lời khai của bà Ba. Tuy nhiên bà Ba lại chính là má vợ của ông Cương (bị đơn). Do vậy, lời khai của bà Ba liệu có khách quan?
- Vả lại, nếu lời khai của bà Ba là đúng như Tòa đã nhận định thì cũng có nghĩa là bà Ba đã lừa dối tôi khi bán đất cho tôi năm 1999. Vì khi đó, rõ ràng giấy tờ đất và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất – do chính bà Ba khai, đều ghi rõ là thửa 207, diện tích 180m2.
- Ngoài ra, nếu đúng như Tòa nhận định, cho rằng ông Cương đã sử dụng ổn định phần đất trên từ trước năm 1993 thì tại sao năm 1995 khi chính quyền đo vẽ, cấp Giấy CNQSDĐ cho ông Cương lại không có phần đất thuộc thửa 207. Và nếu ông Cương cho rằng UBND huyện Xuyên Mộc cấp giấy sai thì tại sao ông không khiếu nại – trong khi ông Cương chính là một thành viên trong Hội đồng xem xét cấp giấy CNQSDĐ tại địa phương ? Có nghĩa là ông Cương biết rõ hơn ai hết về quá trình tiến hành việc cấp Giấy CNQSDĐ tại địa phương.
- Mặt khác, dù Tòa án huyện Xuyên Mộc công nhận phần đất cho ông Cương căn cứ vào Sơ đồ vị trí ngày 17-10-2005. Nhưng sơ đồ này có 2 ranh khác nhau, do tôi và ông Cương chỉ thì Tòa lại căn cứ duy nhất theo sự chỉ ranh của ông Cương là không khách quan, mâu thuẫn với các tài liệu pháp lý khác.
Chính vì vậy, tôi đã làm đơn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm lần 2. Cụ thể là:
1. Việc chỉ ranh của bị đơn (ông Cương) là không đúng, mâu thuẫn với giấy tờ chính thức đang có giá trị:
Như đã nói, trong lần xét xử sơ thẩm lần 2, TAND huyện Xuyên Mộc chỉ căn cứ vào sơ đồ vị trí ngày 17-10-2005 theo ranh giới do chính bị đơn (ông Cương) chỉ để giải quyết. Nhưng ranh này hoàn toàn không đúng, mâu thuẫn với các tài liệu sau:
• Sơ đồ vị trí của Phòng Địa chính huyện Xuyên Mộc ngày 09-11-1999
• Sơ đồ giải thửa ngày 05-06-2002
• Trích lục bản đồ ngày 07-11-2003
• Giấy CNQSDĐ của tôi và của bà Đặng Thị Ba năm 1995 và 1999.
Như vậy, liệu phán quyết của Tòa có khách quan không ?
2. Việc Tòa ra bản án theo ranh đất do bị đơn (ông Cương) chỉ đã làm phát sinh rất nhiều điều vô lý, mâu thuẫn, cụ thể là:
Nếu căn cứ theo đúng ranh đất do ông Cương chỉ thì “tự nhiên” tôi có thêm một phần đất ở mặt tiền. ( Xem sơ đồ thửa đất sau đây).
Với việc xét xử như trên, ông Cương tự nhiên có thêm được một diện tích đất lớn hơn gần 500m2 do với diện tích ghi trong Giấy CNQSDĐ của mình.
Và do vậy, “tự nhiên” cũng sẽ làm phát sinh tranh chấp giữa ông Hoa với ông Cương và giữa ông Hoa với tôi. Tuy nhiên, Tòa đã “khéo léo” che dấu sự vô lý này bằng cách cho rằng do ông Hoa không có tranh chấp với tôi và ông Cương nền “đình chỉ việc xét xử” này (?!).
3. Ông Cương (bị đơn) là thành viên trong Ban địa chính, Hội đồng xét duyệt cấp Giấy CNQSDĐ tại xã nên biết rõ mọi việc :
Theo Biên bản xét cấp giấy CNQSDĐ ngày 18-04-1995 của UBND xã Bàu Lâm thì ông Cương cũng là thành viên trong Hội đồng này.
Trong danh sách những người đủ điều kiện để được cấp giấy có tên của bà Ba, Ngày 24-11-1995 bà Ba được cấp giấy CNQSDĐ trong đó tờ bản đồ 71, thửa 207 có diện tích là 180m2. Như vậy, có thể khẳng định ông Cương biết rõ về quá trình cấp Giấy CNQSDĐ cho bà Ba. Do vậy, không thể có việc UBND huyện Xuyên Mộc đã cấp Giấy cho ông không đúng và càng không thể có chuyện cấp giấy cho bà Ba trên phần diện tích lấn sang bên ông.
Hơn nữa nếu ông Cương cho rằng UBND huyện Xuyên Mộc cấp Giấy CNQSDĐ cho ông là không đúng diện tích thì tại sao trong suốt một thời gian dài mà ông không khiếu nại.
Hơn nữa, thực tế tôi không hề tranh chấp với ông Cương ở thửa đất số 206 tờ bản đồ 71, vì đất trên của ông Hoa, nếu có tranh chấp xảy ra thì xảy ra giữa ông Hoa và ông Cương chứ tôi hoàn toàn không có tranh chấp gì liên quan. Do vậy việc toà “nghĩ” ra tranh chấp ở phần này rồi ra quyết định đình chỉ là đã đi ra ngoài nội dung yêu cầu của tôi.
II. Đối với Quyết định đình chỉ :
Tôi cho rằng việc đình chỉ xét xử vụ án của Tòa án tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ngày 10-5-2006 là trái qui định và có rất nhiều việc bất thường, tiêu cực. Cụ thể:
1. Chưa hết thời hạn kháng cáo đã chuyển hồ sơ, mới thụ lý 1 ngày đã đưa ra xét xử là quá gấp gáp, bất thường :
Ngày 22-03-2006 Tòa án huyện Xuyên Mộc xét xử sơ thẩm lần 2. Trong khi chưa hết thời hạn kháng cáo kháng nghị (15 ngày) thì ngày 05-04- 2006 Tòa án huyện Xuyên Mộc đã chuyển hồ sơ lên TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Ngay trong ngày 05-04- 2006, không hiểu Tòa phân công án như thế nào mà thẩm phán Hùng (TAND tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu) đã ban hành ngay 2 văn bản tố tụng là : Giấy triệu tập đương sự và Quyết định đưa vụ án ra xét xử vào ngày 25-04-2006.
Phải chăng trong sự việc này có gì bất thường ?
2. Quyết định đình chỉ của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu không có căn cứ :
Ngày 05-04-2006, thẩm phán Nguyễn Văn Hùng có quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm vào ngày 25-04-2006.
Vì cha tôi bị bệnh đột ngột nên tôi đã xin hoãn phiên tòa và được tòa chấp nhận. Cũng trong ngày này TAND tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu ra quyết định số 128 theo đó phiên tòa sẽ mở lại vào ngày 10-05-2006.
Tôi có mời luật sư để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho tôi tại phiên tòa phúc thẩm. Việc này đã được tòa chấp nhận thông qua giấy chứng nhận người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của đương sự ngày 10-05-2006, nhưng vì luật sư của tôi mới đọc hồ sơ nên không thể ra tòa ngay vào chiều ngày 10-05-2006 do vậy luật sư đã làm đơn xin hoãn phiên tòa.
Tuy nhiên cũng trong ngày 10-05-2006 tôi lại nhận được quyết định số 07/2006/QĐĐC-DSPT của TAND tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu đình chỉ xét xử vụ án vì lý do tòa đã triệu tập hợp lệ hai lần nhưng tôi và cha tôi đều vắng mặt.
Việc đình chỉ như vậy là không đúng vì thực tế tòa chỉ có một lần gửi giấy triệu tập xét xử vụ án lúc 1h30 ngày 10-02-2006 ngoài ra tôi hoàn toàn không nhận được giấy triệu tập nào khác.
Điều 266 quy định: Người kháng cáo vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên toà. Người kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ việc kháng cáo và Toà án ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm phần vụ án có kháng cáo của người kháng cáo vắng mặt.
Như vậy nếu căn cứ vào quy định trên thì nếu tôi đuợc triệu tập hợp lệ đến hai lần thì mới đình chỉ vụ án, nhưng trên thực tế tôi chỉ có một lần nhận được giấy triệu tập. Do vậy việc TAND tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu đình chỉ xét xử vụ án là không đúng.
Với những điều trình bày trên, tôi kính đề nghị Quí cấp xem xét và ra quyết định kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với :
- Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án số 07/2006/QĐĐC-DSPT ngày 10-5-2006 của TAND tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.
- Bản án dân sự sơ thẩm (lần 2) số 05/2006/DSST ngày 22-03-2006 của TAND huyện Xuyên Mộc.
Rất mong được xem xét, giải quyết. Xin chân thành cám ơn.
Người làm đơn
NGUYỄN THỊ NGỌC CẨM (đã ký)
Đính kèm:
- QĐ số 07/2006/QĐĐC-DSPT ngày 10-5-2006 của TAND tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.
- Bản án dân sự sơ thẩm (lần 2) số 05/2006/DSST ngày 22-03-2006 của TAND huyện Xuyên Mộc.
- Sơ đồ các thửa đất theo bản đồ địa chính.
- Giấy CNQSDĐ của tôi.
----------------------------------
Bài liên quan:
- Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm của Tòa án
- Đơn đề nghị xem xét lại bản án theo thủ tục giám đốc thẩm (vụ án hình sự)
Mẫu văn bản Ecolaw là
tài sản trí tuệ của công ty luật hợp danh Ecolaw. Có ý nghĩa và chỉ nên sử dụng
như tài liệu tham khảo. Công ty luật hợp danh Ecolaw không chịu trách nhiệm
trong trường hợp quí vị sử dụng vào mục đích khác.
Quí vị
có thể click vào menu “Mẫu văn bản” để thao khảo thêm về những
mẫu đơn từ/văn bản … mà mình quan tâm.
Lưu ý: bài viết trên thuộc lĩnh vực Đơn
từ, tranh chấp dân sự
|
CÔNG
TY LUẬT HỢP DANH ECOLAW – ĐỊA CHỈ TIN CẬY CỦA MỌI NGƯỜI
843 Lê Hồng Phong, P.12, Quận
10, TP. Hồ Chí Minh
Email: ecolaw1@gmail.com -
website: www.ecolaw.vn
|