Monday, August 4, 2014

Đơn khiếu nại công văn trả lời của Tòa án

Kiện tụng, tranh chấp là việc “vô phúc”, ai có vướng vào vòng lao lý mới thấm thía thế nào là “gian nan đáo tụng đình”. Dưới đây là một Đơn khiếu nại của một đương sự trong một vụ án ly hôn, có tranh chấp về tài sản – mà công ty luật hợp danh Ecolaw đã soạn thảo cho khách hàng của mình.

Ngoài ý nghĩa tham khảo về mặt pháp lý (mẫu đơn), nội dung trong lá đơn này có lẽ là một bài học kinh nghiệm mà nhiều người nên biết để tránh. Vì lý do tế nhị, chúng tôi có thay đổi tên của các đương sự và những người liên quan trong đơn. Tuy nhiên đây là một câu chuyện hoàn toàn có thật và chưa có hồi kết.

Trong câu chuyện này, chúng tôi thật khó (và cũng không có quyền) nói rằng Tòa đúng hay sai. Tuy nhiên, có thể khẳng định quyền phán quyết của Tòa án nói chung và của thẩm phán nói riêng gần như là “độc quyền”, “tuyệt đối”. Vì vậy, xã hội luôn đòi hỏi và mong mốn có một hệ thống tòa án với những người cầm cân nảy mực thực sự công tâm, khách quan và tôn trọng pháp luật.

-----------------------------------------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự Do - Hạnh Phúc

TP. Hồ Chí Minh, ngày 6 tháng 1 năm 2012

ĐƠN KHIẾU NẠI
(V/v: Trả lời không thỏa đáng đơn xin giám đốc thẩm của tôi)

Kính gửi:       CHÁNH ÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TP.HỒ CHÍ MINH
                        CHÁNH ÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO (Báo cáo)


Tôi là: NGUYỄN THỊ H., sinh : 1960.
Hộ khẩu thường trú: xxx Nguyễn Trãi, P.Nguyễn Cư Trinh, Q.1, TP.Hồ Chí Minh.

Nay tôi làm đơn này (lần 2), khiếu nại công văn AA/TATP-GĐKT của TAND TP. HCM đã trả lời đơn xin giám đốc thẩm của tôi không thỏa đáng.

Cụ thể như sau:

Nguyên tôi và ông Lê Xuân Th. kết hôn năm 1979. Quá trình chung sống có 4 con và một số tài sản có giá trị (nhà, xe ô tô, Nhà máy bia …).

Đầu năm 2010, chúng tôi nộp Đơn yêu cầu ly hôn. TAND quận Thủ Đức thụ lý, giải quyết.

Ngày 29-4-2010, TAND Thủ Đức ra bản án số XX/2010/HNGĐ-ST. Nội dung tuyên như sau:

- Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông Th..

- Về tài sản chung: Tòa xác định tài sản chung là căn nhà số YY khu phố 3, P.Tam Bình, Q. Thủ Đức, nhờ con trai Lê Xuân N. đứng tên. Ông N. đã bán căn nhà với giá 2,4 tỷ đồng, do vậy phải giao cho tôi (H.) và ông Th. mỗi người 1,2 tỷ đồng. Vì tôi đã nhận 740 triệu đồng nên ông N. phải giao tiếp 260 triệu đồng tiền bán nhà cho tôi.

- Ghi nhận tôi (H.) tự nguyện không yêu cầu hưởng 300 triệu tiền thu nhập do hoạt động kinh doanh sản xuất bia hơi (từ Nhà máy sản xuất bia C. – là cơ sở kinh doanh của Hộ gia đình tôi tại huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận).

Trước đó, trong quá trình tòa án Thủ Đức giải quyết ly hôn, tôi phát hiện giấy mua bán nhà giữa ông N. và vợ chồng người mua (tên Bùi Văn B. – Lê Ng.) ghi giá bán là 3.930.000.000 đồng chứ không phải là 2.400.000.000 đồng như ông Th. nói.

Do vậy, ngày 25-2-2010, tôi có làm “Đơn yêu cầu chia tài sản khi ly hôn” - trình bày việc này và đề nghị được chia số tiền thực tế bán nhà là 1.965.000.000 đồng. Tôi cũng nộp bản photo giấy mua bán này cho tòa án.

Tuy nhiên, khi xét xử, thẩm phán lúc đó là bà XX đã cố tình bỏ qua, không đề cập gì tới tình tiết này. Chỉ sau khi nhận được bản án sơ thẩm, tôi mới thấy rằng sự việc và quyền lợi của tôi đã bị tòa án quận Thủ Đức bóp méo và làm ảnh hưởng một cách nghiêm trọng. Do vậy, tôi đã có Đơn kháng cáo, nhưng TAND TP.Hồ Chí Minh đã bác đơn kháng cáo của tôi vì lý do quá hạn, đồng thời hướng dẫn tôi làm “Đơn xin giám đốc thẩm” để được xem xét.

Qua tháng 8-2010, tôi đã có “Đơn xin giám đốc thẩm/tái thẩm” đối với bản án của tòa Thủ Đức.

Ngày 9-12-2010, TAND TP.HCM có Công văn số BB/TATP-GĐKT trả lời không có căn cứ để chấp nhận khiếu nại của tôi, đồng thời hướng dẫn tôi tôi kiện chia tài sản chung. Nội dung cho rằng:

- “Bản án số 29/2010/HNST ngày 29-4-2010 của TAND Q. Thủ Đức là đúng pháp luật”.

- “TAND TP.HCM báo cho bà biết bà có quyền khởi kiện tranh chấp tài sản chung của vợ chồng theo qui định của pháp luậttại TAND Q. Thủ Đức”.

Khi nhận Công văn trả lời, tôi có hỏi lý do không chấp nhận Đơn của tôi thì được cán bộ tòa trả lời (miệng) như sau: về việc bán nhà trong quá trình xét xử, tôi đã nộp Giấy biên nhận ngày 21-12-2009 (bản photo). Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, tôi cũng có trả lời như vậy – thể hiện trong Biên bản phiên tòa.

Theo hướng dẫn của tòa, tôi đã làm Đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện (trong vụ án yêu cầu chia tài sản chung sau ly hôn – do tôi khởi kiện tại TAND Q. Thủ Đức). Nhưng tòa Thủ Đức không chấp nhận lý do tôi nêu là căn nhà bán với giá 3.930.000.000 đồng. Mà cho rằng việc này đã được Tòa xem xét, giải quyết rồi.

Do đó, ngày 22-6-2011, tôi có “Đơn trình bày và đề nghị” đối với nội dung công văn số 282 của TAND TP. HCM. Theo đơn này, tôi đã trình bày về như sau:

- Tôi đã nộp Giấy biên nhận bán nhà ngày 21-12-2009 (bản photo) cho thẩm phán XX. Lúc này Biên nhận này chưa có xác nhận đã giao đủ tiền của ông B. ( xác nhận ngày 1-8-2010) như nói trên. Lúc đó, thẩm phán XX nhận và nói với tôi là sẽ giải quyết sau. Nhưng sau đó, thẩm phán XX lại cố tình bỏ lơ, không xét tới khi xét xử. Trong Bản án sơ thẩm cũng không có ghi nhận việc này.

- Không hề có việc tôi thỏa thuận là đồng ý không tranh chấp số tiền bán nhà 3,93 tỷ đồng. Văn bản thỏa thuận nào đó mà tòa nói có thể do giả mạo, hoặc vì tôi không hiểu pháp luật mà tòa Thủ Đức đã lừa gạt tôi ghi thêm vào.

Đến ngày 16-9-2011, TAND TP. HCM có công văn số AA/TATP-GĐKT trả lời không đồng ý “Đơn khiếu nại” của tôi vì các lý do sau:

1. Theo đơn yêu cầu chia tài khi ly hôn ngày 25-2-2010, tôi yêu cầu ông Th. chia ½ số tiền bán căn nhà (số YY, khu phố 3, Tam Bình, Thủ Đức) là 1,9 tỷ đồng (3,9 tỷ đồng : 2), trừ đi số tiền đã nhận ông Th. phải Th. toán cho tôi 1,025 tỷ đồng.

2. Sau đó, tại đơn thay đổi yêu cầu ngày 23-3-2010, tôi chỉ yêu cầu ông Th. đưa 560 triệu đồng, trong đó có 260 triệu đồng là tiền bán nhà số YY, và 300 triệu đồng tiền thu nhập từ hoạt động kinh doanh chế biến sản xuất bia hơi.

3. Về việc TAND quận Thủ Đức không đưa bà Phan Nữ D. là vợ ông N. tham gia tố tụng vì có liên quan đến căn nhà số YY, tại tờ tường trình ngày 7-9-2011, bà D. đã thừa nhận căn nhà trên là tài sản riêng của ông N., và tôi đã không thắc mắc hay khiếu nại gì về bản án số 29/2010/HN-GĐ ngày 29-4-2010.

Liên quan đến công văn trên đây, tôi không thể đồng ý với lý do mà Quí Tòa đưa ra. Vì:

1. Tôi chưa từng có đơn thay đổi yêu cầu hay thỏa thuận nào lập ngày 23-3-2010, nếu có thì đây là văn bản giả mạo:

Theo công văn, ban đầu tôi yêu cầu ông Th. trả cho tôi 1,025 tỷ đồng, nhưng sau đó ngày 23-3-2010 tôi đã có đơn yêu cầu thay đổi giảm số tiền đòi xuống còn 560 triệu đồng.

Trên thực tế, vì số tiền bán căn nhà số YY là 3,9 tỷ đồng, nên ngày 25-2-2010, đúng là tôi đã có “Đơn yêu cầu chia tài khi ly hôn” gửi TAND quận Thủ Đức trình bày về việc này. Trong đơn, tôi yêu cầu rất rõ là chia số tiền 1,9 tỷ đồng. ( Chính con gái tôi là Lê Thị Q. cũng đã có đơn xác nhận việc này).

Sau đó tôi không có bất kỳ đơn từ nào hay thỏa thuận nào thay đổi yêu cầu của mình. Do vậy, việc nói rằng tôi đã thay đổi yêu cầu đòi từ 1,025 tỷ đồng giảm xuống chỉ còn 560 triệu đồng, mà trong đó số tiền yêu cầu từ việc bán căn nhà chỉ còn 260 triệu đồng, giảm hơn 760 triệu đồng là hoàn toàn vô lý. Không thể có được.

Do đó, tôi khẳng định “Đơn thay đổi yêu cầu” ngày 23-3-2010 không có hoặc nếu có là giả mạo – rất có thể do bà thẩm phán XX ngụy tạo theo hướng có lợi cho ông Th.. (Chỉ tiếc rằng tôi không có bằng chứng về việc bà XX tiêu cực mà thôi).

Nếu thực sự trong hồ sơ có Đơn thay đổi yêu cầu này, kính đề nghị Quí tòa cho giám định tờ đơn trên – tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc này.

2. Việc TAND quận Thủ Đức không đưa bà Phan Nữ D. vào tham gia tố tụng là trái luật:

Trả lời về việc Tòa Thủ Đức đã không triệu tập bà D., vợ ông N., tham dự phiên tòa với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, Quí Tòa cho rằng “tại tờ tường trình ngày 7-9-2011, bà D. đã thừa nhận căn nhà trên là tài sản riêng của ông Nam” nên TAND quận Thủ Đức đã không triệu tập bà Cơ tham gia tố tụng.

Tôi cho rằng cách nói như trên chẳng qua là sự ngụy biện, và hoàn toàn trái luật.

Trước hết, việc gần đây (ngày 7-9-2011) tức là sau khi tôi đã gửi Đơn khiếu nại giám đốc thẩm, thì tòa mới mời bà Cơ để xác minh. Thì rõ ràng là hành động mang tính đối phó, hoàn toàn không đúng luật.

Thứ hai, trên thực tế, căn nhà số YY là do vợ chồng N. đứng tên chứ không phải chỉ mình N. Chính vì vậy, tại “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” số XXX ngày 21-12-2009 tại Phòng công chứng số 3 ghi rất rõ bên chuyển nhượng là ông Lê Xuân N. và bà Phan Nữ D. ( và có cả chữ ký của bà D.).

Như vậy, sao có thể nói bà D. không có liên quan đến? Hay nói cách khác, việc TAND quận Thủ Đức không triệu tập bà D. tham gia phiên tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là vi phạm nghiêm trọng qui định của pháp luật.

3. Ngoài ra, TAND quận Thủ Đức còn vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng vì đã không triệu tập 1 trong những người con chung của tôi và ông Th. tham gia tố tụng khi giải quyết ly hôn

Trong quá trình chung sống, tôi và ông Th. có chung 4 người con là: Lê Thị Q., Lê Xuân N., Lê Xuân M. và Lê Xuân Ph. Thế nhưng, chỉ gần đây, khi làm Đơn yêu cầu chia tài sản là Nhà máy bia Cửu Long, đứng tên “hộ gia đình”, tôi mới phát hiện là tại bản án sơ thẩm số KK/2010/HNGĐ-ST của TAND quận Thủ Đức ngày 29-4-2010, Tòa nói vợ chồng chúng tôi chỉ có 3 người con chung là Q., N. và Ph. – thiếu Lê Xuân M. (sinh 1987).

Việc thiếu tên này là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và hiện nay đang gây cho tôi nhiều khó khăn trong việc giải quyết chia tài sản chung của hộ gia đình chúng tôi chưa chia khi ly hôn.

Kính thưa Quí Tòa,

Qua các điều trình bày trên, tôi vẫn giữ nguyên quan điểm cho rằng TAND quận Thủ Đức đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dân sự, có dấu hiệu ngụy tạo hồ sơ vụ án, thiếu khách quan công bằng trong quá trình giải quyết vụ án ly hôn của tôi, đã và đang gây cho tôi nhiều thiệt hại, khó khăn và không thể chấp nhận được.

Ngày 25-10-2011, tôi đã gửi đơn khiếu nại đến Quí cơ quan, nhưng đến nay đã 3 tháng vẫn chưa thấy có hồi âm. Do vậy nay tôi có đơn này (lần 2), khiếu nại công văn số AAA/TATP-GĐKT ngày 16-9-2011 của TAND TP. HCM. Đồng thời đề nghị như sau:

- Xem xét và ra quyết định giám đốc thẩm đối với bản án số KK/2010/HNGĐ-ST ngày 29-4-2010 của TAND quận Thủ Đức.

- Ra quyết định giám định chữ ký đối với tờ “Đơn thay đổi yêu cầu” ghi ngày 23-3-2010 đứng tên tôi do TAND quận Thủ Đức đưa ra.

Kính mong được Quí cơ quan xem xét và giải quyết. Tôi xin chân thành cảm ơn.

                                                                                                        Người làm đơn (đã ký)
---------

Đính kèm:

- “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” ngày 21-12-2009.
- Bản sao giấy khai sinh Lê Xuân M.


Mẫu văn bản Ecolaw là tài sản trí tuệ của công ty luật hợp danh Ecolaw. Có ý nghĩa và chỉ nên sử dụng như tài liệu tham khảo. Công ty luật hợp danh Ecolaw không chịu trách nhiệm trong trường hợp quí vị sử dụng vào mục đích khác.
Quí vị có thể click vào menu “Mẫu văn bản” để thao khảo thêm về những mẫu đơn từ/văn bản … mà mình quan tâm.
Lưu ý: bài viết trên thuộc lĩnh vực  Đơn từ - Tranh chấp dân sự 

CÔNG TY LUẬT HỢP DANH ECOLAW – ĐỊA CHỈ TIN CẬY CỦA MỌI NGƯỜI

843 Lê Hồng Phong, P.12, Quận 10, TP. Hồ Chí Minh
Email: ecolaw1@gmail.com - website: www.ecolaw.vn