Wednesday, June 3, 2015

Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO)

(Ecolaw.vn) - Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (tiếng Anh: World Intellectual Property Organization – WIPO; tiếng Pháp: Organisation mondiale de la propriété intellectuelle) là một trong những cơ quan chuyên môn của Liên Hiệp Quốc, được thành lập vào năm 1967 có mục tiêu chính là "đẩy mạnh hoạt động trí tuệ sáng tạo và tạo điều kiện chuyển giao công nghệ liên quan đến sở hữu trí tuệ sang các nước đang phát triển nhằm mục tiêu đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá" (điều 1 của Hiệp ước giữa UN và WIPO năm 1974) và phạm vi hoạt động là "khuyến khích sự sáng tạo của nhân loại và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trên toàn thế giới.

Tòa nhà trụ sở của WIPO tại Genève (Thụy Sỹ)


WIPO hiện nay (năm 2015) có 184 thành viên và quản lý 23 hiệp ước quốc tế , đặt trụ sở chính tại Genève, Thụy Sĩ. Tổng giám đốc đương nhiệm là ông Kamil Idris.

Vatican và hầu hết các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc đều tham gia vào WIPO. Những quốc gia và vùng lãnh thổ không tham gia WIPO bao gồm: Kiribati, Quần đảo Marshall, Liên bang Micronesia, Nauru, Palau, Palestine, Cộng hòa Sahrawi, Quần đảo Solomon, Đài Loan, Đông Timor, Tuvalu và Vanuatu.

Tiền thân của WIPO là BIRPI được thành lập vào năm 1893 để quản lý việc thực thi Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật và Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp.

Công ước về thành lập Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới chính thức đặt nền móng cho sự thành lập của WIPO, có hiệu lực từ ngày 26 tháng 4 năm 1970. Theo điều 3 của công ước, WIPO hướng tới mục đích thúc đẩy việc bảo hộ tài sản trí tuệ trên toàn cầu. WIPO trở thành một cơ quan đặc trách của Liên hợp quốc từ năm 1974.

Không giống các cơ quan khác của Liên hợp quốc, WIPO có nguồn tài chính riêng độc lập với sự đóng góp của các quốc gia thành viên Liên hợp quốc. Năm 2006, hơn 90% trong số tiền 250 triệu francs Thụy Sỹ  có được là nhờ vào tiền lệ phí đăng kí và nộp hồ sơ cho Văn phòng chính của WIPO (International Bureau) căn cứ theo quy định của Hiệp ước PCT về đăng ký bằng sáng chế (Patent Cooperation Treaty), hệ thống Thỏa ước Madrid về đăng ký nhãn hiệu quốc tế và hệ thống Thỏa ước Hague về đăng ký kiểu dáng công nghiệp.

Giống như tất cả các diễn đàn đa chính phủ khác của Liên hợp quốc, WIPO không phải là một cơ quan dân cử. WIPO thường cố gắng đi đến các quyết định thông qua phương thức đồng thuận. Trong trường hợp phải bỏ phiếu, mỗi quốc gia thành viên của WIPO đều có một phiếu, bất kể dân số và sự đóng góp tài chính của quốc gia đó (cho WIPO) như thế nào. Điều này dẫn đến một hệ quả tất yếu liên quan đến chính sách về tài sản trí tuệ giữa các quốc gia ở Bắc và Nam bán cầu. Trong suốt những năm 60 và 70 của thế kỷ XX, các quốc gia đang phát triển có thể ngăn cản việc triển khai các hiệp định về sở hữu trí tuệ, điển hình như việc cấp bằng sáng chế dược phẩm trên phạm vi toàn cầu.

Tháng 10 năm 2004, WIPO đồng ý thông qua đề xuất của Argentina và Brazil về thiết lập một chương trình nghị sự phát triển cho WIPO - trên cơ sở của Tuyên bố Geneva về tương lai của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới. Đề xuất này đã nhận được sự ủng hộ từ các nước đangg phát triển. Một số cơ quan dân sự xã hội đã bắt đầu làm việc trên Dự thảo về tiếp cận kiến thức (Draft of Access to Knowledge - A2K).

Trong lần trao đổi với tờ Bưu điện Washington vào năm 2003, Lois Boland đã nói rằng "phần mềm mã nguồn mở đang chống lại nhiệm vụ thúc đẩy quyền sở hữu trí tuệ của WIPO". Ông cũng cho rằng, "để tổ chức một cuộc họp với mục đích là từ chối hoặc từ bỏ những quyền đó có lẽ sẽ đi ngược lại tôn chỉ của WIPO.

WIPO cũng đã thiết lập mạng thông tin toàn cầu WIPOnet. Dự án này hướng tới việc liên kết hơn 300 tổ chức về sở hữu trí tuệ ở tất cả cácc nước thành viên của WIPO. Bên cạnh việc cung cấp một cách thức trao đổi thông tin an toàn giữa các bên, WIPOnet cũng đánh dấu bước đi đầu tiên của WIPO trong lĩnh vực dịch vụ về sở hữu trí tuệ.

(Theo Wikipedia)

----------------

Luật quốc tế

Sở hữu trí tuệ
  1. Công ước Berne - Về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật
  2. Công ước Rome - Về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức phát sóng
  3. Công ước Geneva - Về bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm
  4. Công ước Brussels - Về việc phân phối tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh
  5. Công ước toàn cầu về bản quyền
  6. Thỏa Ước TRIPS - Về những khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ
  7. Hiệp ước của WIPO về quyền tác giả
  8. Hiệp ước của WIPO về biểu diễn và bản ghi âm
  9. Luật Quyền tác giả của hợp chủng quốc Hoa Kỳ
  10. Luật Quyền tác giả tác phẩm văn học và nghệ thuật Thụy Điển

Thương mại