Hỏi: Thưa luật sư, tôi có một trường hợp cần luật sư tư vấn giúp tôi: Vừa qua tôi có viết một email nói đúng sự thật về những người làm trong công ty của tôi với một người ngoài công ty. Rồi chính người này đã nói lại công ty của tôi, và họ đã làm đơn tố cáo tôi với Bộ Công An. Vậy cho tôi hỏi, toàn bộ tôi nói là sự thật, họ có thể điều tra lại công ty tôi, tuy nhiên, có 1 vấn đề là về tài chính, công ty tôi có thể làm giả để chứng minh về mặt pháp luật là tôi sai, vì tôi không có căn cứ giấy tờ gì để chứng minh. Tôi phải làm sao ? Xin luật sư tư vấn giúp tôi. Xin cám ơn (A. Gh).
Không nên cố ý lan truyền những thông tin mà mình chưa biết hoặc biết rõ là không đúng sự thật (ảnh minh họa)
Luật sư Trần Hồng Phong trả lời:
Trước hết, việc anh gửi email, có nội dung “xấu” (tạm xem là vậy) về công ty nơi mình làm việc cho một người bên ngoài là không ổn về mặt pháp luật. Vì trước hết người này không liên quan, không có thẩm quyền gì để giải quyết. Thứ hai là trong trường hợp giả sử rằng công ty có sai phạm, thì cần phải gửi đến đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Chẳng hạn là công an, hay cơ quan quản lý cấp trên (nếu có)…
Tôi không muốn bàn sâu về việc những nội dung anh nêu trong email là đúng hay không đúng sự thật. Nhưng nói chung là nếu thư có nội dung xấu, bất lợi cho ai đó, thì tốt nhất là cần phải thật sự cẩn trọng, cân nhắc trước khi gửi đi hay “phát tán”. Vì nếu không, người gửi có thể đối diện với nhiều vấn đề rắc rối, liên quan đến trách nhiệm dân sự và thậm chí cả về mặt hình sự.
Tất nhiên nếu những nội dung gửi đi là đúng sự thật, có chứng cứ chứng minh được, thì có thể an tâm. Nhưng cũng không phải là đã thật sự “an toàn”. Vì dù sao đó cũng chỉ là những nội dung được thể hiện qua lăng kính, quan điểm của quan của một bên, không phải bao giờ cũng thật sự khách quan, thật sự chính xác.
Trong sự việc của anh, việc công ty - vì cho rằng bị nói xấu, vu khống – nên đã gửi đơn tố cáo anh đến cơ quan công an là điều dễ hiểu. Đó cũng là quyền của họ. Là biện pháp để họ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Về phần mình, không có cách nào khác hơn, là anh phải thu thập và chuẩn bị đầy đủ các chứng cứ (có thể gồm tài liệu, hình ảnh, nhân chứng …) để chứng minh những điều mình nêu trong email (gửi cho người quen) là đúng sự thật.
Còn nếu anh không thể chứng minh được, thì cho dù sự thật là như thế nào, xét về mặt pháp luật, xem như anh đã nói không đúng sự thật, đã sai. Về nguyên tắc, anh cần phải và nên xin lỗi để mọi việc êm thấm. Hoặc nếu không, thì anh phải chấp nhận tình huống sẽ bị công ty khởi kiện, yêu cầu xin lỗi, bồi thường thiệt hại.
Có một khía cạnh khác ở đây mà có lẽ anh cũng rất quan tâm, là hành vi của anh có cấu thành tội vu khống hay không? Qua những thông tin anh nêu, thì tôi nghĩ rằng chưa đến mức ấy. Vì việc gửi thư của anh chưa đến mức bị xem là “bịa đặt”, hoặc “loan truyền” những điều mà mình biết rõ là không có, nhằm mục đích xúc phạm danh dự, gây thiệt hại cho công ty. Nói chung anh là người trong cuộc, thì sẽ hình dung ra được tình huống của mình, là có thể vướng vào tội vu khống hay không – theo điều luật chúng tôi đăng dưới đây mà anh nên tham khảo. www.ecolaw.vn
---------------
Quy định tại Bộ luật hình sự:
Điều 122. Tội vu khống
1. Người nào bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Đối với nhiều người;
d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;
đ) Đối với người thi hành công vụ;
e) Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.